** Trình bày về vấn đề “Di cư lao động Việt Nam ở ASEAN và Đông Bắc Á: Thực trạng và triển vọng” – GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn – Trường ĐH Thăng Long cho biết: Việt Nam hiện có hơn 300.000 lao động có bằng cấp không có việc làm. Tỷ lệ người có bằng đại học trở lên thất nghiệp là rất lớn, phản ánh tình trạng mất cân bằng trong giáo dục đại học và hiệu quả chưa cao. Số lượng người trong độ tuổi lao động không có việc làm phân theo trình độ đào tạo. Mặc dù số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài liên tục gia tăng nhanh (từ 78.860 người năm 2006 lên 126.300 người năm 2016, tăng 60%), nhưng chất lượng hiện vẫn còn thấp so với mặt bằng chung các nước trong khu vực.
Xét theo quy mô quốc gia, Đài Loan (Trung Quốc) dẫn đầu về thu hút lao động Việt Nam (44,7%), bởi Đài Loan vốn có rất nhiều cô dâu Việt đang sinh sống tại đó; kế đến là Nhật Bản (14,35%), Hàn Quốc (10,48%) và Malaysia (9,66%).
Tính bình quân chung, thu nhập sau khi trừ chi phí sinh hoạt của lao động Việt Nam tại các thị trường thu nhập thấp, sử dụng lao động giản đơn (Malaysia) khoảng từ 3-4 triệu đồng/tháng; từ 7-12 triệu tại thị trường có thu nhập trung bình (Trung Đông, Đông Âu) và từ 15-20 triệu đồng ở những thị trường thu nhập cao (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan).
Trong 4 thị trường lớn ở trên, thì lao động Việt Nam qua để làm các công việc phổ thông vẫn chiếm phần rất lớn (hơn 99%), mà đa số là làm công nhân trong các nhà máy, xưởng công nghiệp.
Tuy nhiên, theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn, sự chuẩn bị của lao dộng đến làm việc ở ASEAN, Đông Bắc Á nói riêng và các nước khác nói chung còn yếu, thiếu nhiều mặt như: đào tạo ngôn ngữ, trang bị tối thiểu về luật pháp, văn hóa, phong tục tập quán, lối sống của quốc gia nói trên, nên việc chấp hành luật pháp còn yêu kém, không hiếm xung đột vì độ hòa nhập, thích nghi còn yếu. Hiện tượng bỏ nơi làm việc, tự do làm việc ở nơi khác và trốn ở lại khi quá hạn, gây bức xúc dư luận và nhà cầm quyền nước sở tại, ảnh hưởng không nhỏ cho kế hoạch chung xuất khẩu lao động của Bộ Lao động-Thương binh, Xã hội. Bên cạnh đó, chưa khắc phục được vấn nạn cò mồi, tuyển dụng bất hợp pháp và quản lý lao động di cư đến ASEAN và cá nước Đông Bắc Á.
Về khuyến nghị, GS. Nguyễn Cảnh Toàn nhắc lại lời nguyên Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp cho rằng, trong năm 2019, Cục Quản lý Lao động ngoài nước cần tập trung hoàn thiện hệ thống luật pháp, phối hợp với các đơn vị liên quan chuẩn bị, trình nội dung về sửa đổi Luật đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào năm 2020.
** Tại Hội nghị, TS. Nguyễn Lê Minh – chuyên gia lao động, nêu một số vấn đề về truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng trong sự nghiệp XKLĐ, trong đó nhấn mạnh: Ở trong nước, phải thừa nhận rằng thời gian qua các phương tiện truyền thông báo giấy, báo nói, báo hình, báo điện tử… đã có rất nhiều cố gắng, thông qua việc đưa tin, điều tra, phóng sự liên quan đến sự nghiệp xuất khẩu lao động.
Tuy nhiên, có những thông tin đúng là chua xót và bức xúc, tuy còn cá biệt, nếu ta đưa công khai có khi gây hoang mang lợi bất cập hại. Trường hợp này có thể trao đổi trức tiếp với Công ty XKLĐ yêu cầu giải quyết, hoặc trao đổi với cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này (Cục quản lý Lao động ngoài nước) để can thiệp kịp thời.
Các cơ quan truyền thông hoàn toàn có thể và có quyền đặt vấn đề với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội để đi các nước có nhiều lao động Việt Nam đang làm, việc thực hiện các phóng sự về cộng đồng này, qua đó người lao động có thêm niềm tin vì có thêm một kênh để phản ánh tâm tư nguyện vọng, còn cơ quan truyền thông có thêm thông tin tươi mới nhất góp phần để Nhà nước có điều kiện điều chỉnh nhanh nhất các quyết định của mình trong lĩnh vực XKLĐ.
“Về điểm này, chúng tôi xin nêu một ví dụ: Đã có lần nhằm tìm hiểu thêm về người lao động Việt Nam ở hai nước Cộng hòa Séc và Xlo-va-kia, chúng tôi cùng với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch- đầu tư đã phối hợp với Trung tâm hợp tác báo chí truyền thông quốc tế thuộc Bộ Văn hóa thông tin đi hai nước đó để xây dựng một bộ phim phóng sự tài liệu ngắn. Bộ phim đã được công chiếu và có kết quả tốt” – TS Nguyễn Lê Minh dẫn chứng.
** Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Phó Chủ tịch Hiệp hội XKLĐ Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục QLLĐ ngoài nước cho biết, XKLĐ phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, điểm yếu của lao động Việt Nam là tình trạng bỏ trốn diễn ra phổ biến và kéo dài nhiều năm qua, ý thức còn kém, tay nghề còn yếu, chủ yếu là lao động phổ thông, chưa được đào tạo; trong khi chúng ta thiếu lao động tay nghề cao.
Trước đây đã tồn tại Ban chỉ đạo XKLĐ ở địa phương, tuy nhiên hoạt động không hiệu quả. Do đó, về hướng sửa đổi Luật, các doanh nghiệp phải tuyển chọn trực tiếp, không được tuyển qua trung gian và doanh nghiệp có đơn hàng rồi mới được tuyển chọn lao động.
Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh cho rằng, truyền thông về XKLĐ rất quan trọng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy người lao động vẫn tin ở thông tin “rỉ tai” hơn là chính thức. Do đó cần làm sao để người dân tin ở thông tin từ nhà nước, báo chí cung cấp. Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh mong muốn các cơ quan báo chí cùng các cơ quan quản lý nhà nước tìm giải pháp cho vấn đề này.
Phó Chủ tịch Hiệp hội XKLĐ Việt Nam cho biết đã xây dựng Bộ quy tắc ứng xử với 100 tiêu chí/100 điểm và đã có nhiều doanh nghiệp tham gia thực hiện.
Ông Đặng Như Lợi cho rằng báo chí cần giảm bớt thông tin về “tội ác” và đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật và cần đưa thông tin hai chiều.
** Về mối quan hệ giữa báo chí và doanh nghiệp XKLĐ và việc giải quyết khủng hoảng truyền thông trong hoạt động XKLĐ, PGS. TS Nguyễn Thành Lợi – Tổng Biên tập Tạp chí Người làm báo cho biết: Thực tế đã chứng minh, khủng hoảng truyền thông có thể xảy ra với doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị, tổ chức bất kỳ lúc nào, nhất là trong thời đại mạng xã hội bùng nổ tạo nên hàng triệu “nhà báo công dân” như hiện nay. Nếu không có giải pháp xử lý kịp thời và bài bản, sự khủng hoảng ấy có thể gây ra hậu quả khó lường.
Khi có sự kiện, vấn đề nảy sinh, nếu báo chí đưa tin trung thực, ý kiến phân tích khách quan, có tri thức, có thiện chí, rạch ròi, cụ thể, chỉ rõ điều cần phê phán sẽ có tác dụng tích cực, gây hiệu ứng lành mạnh trong xã hội. Khi ấy buộc đơn vị, tổ chức liên quan phải nhận lỗi trước dư luận, điều chỉnh quá trình kinh doanh, thậm chí phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu để lại hậu quả nghiêm trọng.
Còn nếu báo chí chạy theo xu hướng khai thác khía cạnh giật gân để câu khách, công bố ý kiến thiếu khách quan, thiếu hiểu biết cặn kẽ vấn đề, lại phiến diện, mập mờ, lợi dụng sự kiện để đưa ra các liên hệ có tính đả kích, bài bác… thì sẽ gây tổn hại đến uy tín, lợi ích của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh Internet phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội cũng góp phần biến một số sự cố (đôi khi rất nhỏ) thành một cuộc khủng hoảng truyền thông. Từ đó có thể nói, trách nhiệm của báo chí đối với dư luận càng phải được đề cao.
Về báo chí, trước khi công bố tin tức, cần xác minh rõ ràng, chính xác; có ý kiến nghiêm khắc song không vùi dập, cố tình làm mất uy tín. Còn chủ ý gây khủng hoảng truyền thông để làm mất niềm tin vào doanh nghiệp, thương hiệu sản xuất nào đó, thì vấn đề không chỉ là trách nhiệm của báo chí, mà đã là dấu hiệu vi phạm luật pháp, cần xử lý thích đáng.
Bên cạnh đó, các cơ quan chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý nhà nước tăng cường công tác chỉ đạo, lãnh đạo và quản lý các hoạt động báo chí, truyền thông. Chủ động cung cấp thông tin, tăng cường việc chỉ đạo xử lý khi xảy ra khủng hoảng truyền thông ảnh hưởng tới sự ổn định xã hội; nâng cao hiệu quả xử lý thông tin, tránh bị động. Xử lý nghiêm các cơ quan báo chí, truyền thông, nhất là những người đứng đầu các cơ quan đó trong việc đăng tải thông tin sai lệch, gây ra khủng hoảng truyền thông.
** TS. Trần Thị Minh Phương – Trường Đại học Lao động – Xã hội cho rằng, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, ngày càng nhiều lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, lao động Việt đã và đang gặp nhiều khác biệt về ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, thị hiếu, thói quen tiêu dùng,… gây khó khăn cho lao động trong việc tiếp cận với công việc có thu nhập cao. Do đó, trong quá trình phát triển Việt Nam cần dành sự quan tâm thực sự đến yếu tố văn hóa, coi đó chìa khóa dẫn tới thành công của lao động Việt trong bối cảnh hội nhập.
Học viên được xem clip, xem phim liên quan đến chương trình học để nâng cao trình độ nghe hiểu. thường xuyên kiểm tra viết và thi nói. Đánh giá học viên để có điều chỉnh theo nhận thức của học viên. Những học viên khá giỏi ưu tiên tiến cử đơn hàng. Học viên yếu kém thì bố trí giáo viên dạy tang cường để nâng cao trình độ.
Đặc biệt, trong thời gian đào tao tiếng và nghề học viên được học hỏi, đào tạo, rèn luyện tác phong làm việc, phong tục tập quán theo chuẩn quy định của từng thị trường.
Ngoài giáo viên người Việt có kinh nghiệm làm việc lâu dài tại nước ngoài, học viên còn được học tập và trải nghiệm với giáo viên người bản địa. Đặc biệt đối với thị trường Nhật Bản – là thị trường có yêu cầu cao đối với người lao động cả về trình độ kĩ năng và năng lực tiếng. Học viên được làm quen, giao tiếp với người bản ngữ nhằm tăng thêm phản xạ ngôn ngữ, phát âm chuẩn và đặc biệt tạo được phong thái tự tin của học viên khi tiếp xúc với người nước ngoài, có thể hiểu rõ phong tục tập quán, các vấn đề về pháp luật.
** Chia sẻ kinh nghiệm tuyên truyền về lĩnh vực XKLĐ trên báo chí mà một số kiến nghị, ông Nguyễn Trung Chính – Q.Tổng Biên tập Báo Lao động và Xã hội nhấn mạnh: Mối quan hệ mật thiết giữa cơ quan báo chí, truyền thông với cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp XKLĐ có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ hỗ trợ hoạt động đưa người lao động đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng diễn ra thuận lợi, tuân thủ đúng các nguyên tắc, quy định, đảm bảo hiệu quả và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường lao động ngoài nước, mà còn góp phần củng cố niềm tin của xã hội, của người lao động đối với hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hơp đồng.
Báo chí cần dành nhiều sự quan tâm và đưa tin nhiều hơn cho hoạt động XKLĐ, làm tốt hơn nữa vai trò định hướng dư luận, tham gia giám sát, phản biện, giúp cơ quan quản lý Nhà nước ban ngành xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện nhiều chủ trương, chính sách pháp luật về XKLĐ. Báo chí cần trở thành cầu nối giữa người lao động với cơ quan quản lý nhà nước, với chính quyền địa phương và doanh nghiệp XKLĐ. Ngoài vai trò tư vấn cho người lao động và doanh nghiệp, báo chí cần định hướng những thông tin tích cực và đấu tranh phòng chống tiêu cực trong lĩnh vực XKLĐ.
** Chia sẻ kinh nghiệm truyền thông về XKLĐ, bà Phạm Ngọc Lan – Phó Giám đốc Trung tâm Lao động ngoài nước cho biết: Trung tâm Lao động ngoài nước luôn chú trọng về công tác thông tin, truyền thông; tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động khi tham gia Chương trình EPS. Công tác thông tin, truyền thông được tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua các cơ quan thông tấn, báo chí, bao gồm cả báo hình, báo viết, báo mạng, phát thanh, thông tin trên cổng thông tin điện tử của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, website của Trung tâm Lao động ngoài nước, trên mạng xã hội thông qua các trang fanpage của Trung tâm.
Để chương trình thực hiện công khai, minh bạch, các thông tin quan trọng trong quá trình phái cử như: kết quả thi tiếng Hàn, tiến độ hoàn thiện hồ sơ thủ tục của người lao động, người lao động được doanh nghiệp tiếp nhận lựa chọn, kế hoạch xuất cảnh… đều được Trung tâm thông báo tới người lao động với nhiều hình thức: nhắn tin qua hệ thống tổng đài tự động của Trung tâm tới điện thoại di động của người lao động, đăng tin trên website Trung tâm, gửi công văn thông báo cho các Sở Lao động – Thương binh và Xã hội địa phương.
** Đề xuất tại Hội nghị, ông Lê Nhật Tân – Phó Tổng giám đốc Công ty CP Phát triển nhân lực LOD, cho rằng Bộ Lao Động Thương Binh & Xã Hội thực hiện triệt để các biện pháp xử lý đối với các trường hợp lao động bỏ trốn khi đang thực hiện hợp đồng tại nước ngoài, cũng như phối hợp với ban ngành địa phương để tái đào tạo và giải quyết công ăn việc làm cho lao động khi về nước.
Bên cạnh đó, mở các kênh thông tin chính thống, các sàn giao dịch việc làm, các hội chợ việc làm để người lao động có thể đăng ký trực tiếp đi làm việc ở nước ngoài, tránh phải qua các chung gian giới thiệu thu thêm phí của người lao động. Xây cổng tạo cổng thông tin điện tử, tạo sân chơi minh bạch, giúp quản lý tốt hơn tình hình tuyển chọn lao động đi làm việc tại Nhật Bản.
Điều này góp phần rất lớn trong việc tạo niềm tin cho người lao động về các chương trình, đồng thời hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc nước ngoài, nhất là trong điều kiện bùng nổ thông tin trên mạng xã hội và internet hiện nay, khi người lao động phải lựa chọn giữa một “rừng” thông tin trên rất nhiều website và mạng xã hội khác nhau thì thông tin chính thức trên báo chí luôn là những thông tin đáng tin cậy và chính thống nhất.
Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà khẳng định: Hội nghị đã cung cấp bức tranh tổng quát về XKLĐ tại Việt Nam, giải pháp đào tạo người lao động trong nước đưa đi nước ngoài; mặt được và chưa được trong công tác XKLĐ; chính sách cho lao động khi trở về; hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này; giáo dục văn hóa cho người lao động; nâng cao hiệu quả công tác truyền thông; các giải pháp từ doanh nghiệp… Hội nghị đã có cái nhìn đa chiều, qua đó Thứ trưởng ghi nhận những ý kiến tại Hội nghị, đồng thời giao Tạp chí Lao động và Xã hội nghiên cứu, tiếp tục phối hợp với các cơ quan báo chí khác đẩy mạnh công tác truyền thông về XKLĐ hiệu quả hơn nữa./.