Tăng cường thông tin hai chiều giữa nhà quản lý, doanh nghiệp với báo chí về xuất khẩu lao động

(LĐXH)- Từ ngày 3-4/10, tại Quảng Ninh, Tạp chí Lao động và Xã hội phối hợp với Cục Quản lý lao động ngoài nước – Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH) tổ chức Hội nghị Truyền thông về xuất khẩu lao động.
Đồng chí Nguyễn Thị Hà – Thứ trưởng Bộ LĐTB&XH dự và chỉ đạo Hội nghị. Đồng chủ trì Hội nghị có TS. Trần Ngọc Diễn – Tổng Biên tập Tạp chí Lao động và Xã hội; ông Nguyễn Gia Liêm – Phó Cục trưởng Cục QLLĐNN.
Tham dự Hội nghị còn có đồng chí Đặng Như Lợi – nguyên Phó Chủ nhiệm  Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội; đồng chí Lê Văn Hoạt – Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Bộ LĐTB&XH; ông Nguyễn Ngọc Quỳnh – Phó Chủ tịch Hiệp hội XKLĐ Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục QLLĐ ngoài nước. Hội nghị cũng thu hút đông đảo đại biểu đại diện cho các Sở LĐTB&XH, các chuyên gia, doanh nghiệp cùng hơn 100 cơ quan báo chí Trung ương và địa phương tới dự và đưa tin.
Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà phát biểu chỉ đạo Hội nghị
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà cho biết, Hội nghị hết sức có ý nghĩa trong thời điểm hiện nay, khi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đang được xem xét sửa đổi; đồng thời hoan nghênh Tạp chí đã tổ chức Hội nghị nhằm tăng cường công tác truyền thông về XKLĐ, cung cấp các thông tin mới cũng như chia sẻ, trao đổi thông tin hai chiều giữa cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp XKLĐ  với phóng viên báo chí. Thứ trưởng cũng đánh giá cao những bài viết của các chuyên gia, học giả trong Hội nghị, nhất là đẩy mạnh cộng tác truyền thông về XKLĐ.
Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà khẳng định, XKLĐ được Chính phủ đánh giá rất quan trọng trong giải quyết việc làm hàng năm. Trong những năm qua, công tác xuất khẩu đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Năm 2017, XKLĐ đạt được con số kỷ lục với trên 134 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, vượt 28,3% so với kế hoạch năm. Năm 2018 tiếp tục là một năm thành công trong lĩnh vực XKLĐ với tổng số lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài đạt hơn 142 nghìn người, vượt 30% so với kế hoạch, là năm thứ năm liên tiếp có số lượng vượt mức 100.000 lao động. Riêng 6 tháng đầu năm 2019, Việt Nam đã được tổng số gần 67 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt 55,82% kế hoạch năm 2019.
Tính chung từ năm 2006 đến nay, Việt Nam đã đưa được hơn 1 triệu lao động đi làm việc ở nước ngoài. Công tác tuyển chọn lao động đi làm việc ở nước ngoài đã được nâng cao; hướng tới mở rộng ra những ngành nghề phù hợp với công nghiệp hóa – hiện đại hóa, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà, TS. Trần Ngọc Diễn – Tổng Biên tập Tạp chí Lao động và Xã hội (phải) và ông Nguyễn Gia Liêm – Phó Cục trưởng Cục QLLĐNN chủ trì Hội nghị.
Cùng với đó, chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài không ngừng được nâng lên, ngành nghề cũng được mở rộng; bắt đầu tiếp cận thị trường mới như châu Âu. Hoạt động của doanh nghiệp XKLĐ không ngừng đi vào nề nếp. Các doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm phát triển thị trường, đào tạo người lao động rất bài bản. Nhiều lao động trở về đã phát triển những ngành nghề mới, tạo công ăn việc làm cho lao động và đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, cũng như thay đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam.
Thứ trưởng nhấn mạnh, kết quả này có phần rất lớn từ công tác truyền thông, vai trò nổi bật, sáng tạo của các cơ quan báo chí. Thời gian qua, Trung tâm Lao động ngoài nước, Cục QLLĐNN, các doanh nghiệp đã quan tâm hợp tác với các cơ quan báo chí, qua đó đẩy mạnh truyền thông, góp phần nâng cao nhận thức cho người dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội đối với lĩnh vực XKLĐ.
Tuy nhiên, công tác truyền thông vẫn mang tính một chiều, chưa quan tâm đúng mức đến những vấn đề lớn. Do đó, Thứ trưởng yêu cầu Hội nghị này, những nội dung mang tính chất căn cơ như nâng cao chất lượng lao động, hậu XKLĐ, những tấm gương về người lao động… sẽ được báo chí quan tâm đẩy mạnh hơn nữa; đồng thời cụ thể hóa những thông điệp, có trọng tâm, trọng điểm, cung cấp đầy đủ thông tin, kỹ năng cho người lao động trước khi ra nước ngoài làm việc; tăng cường truyền thông về các kỹ năng, giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác XKLĐ; đưa thông tin nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời tới người dân nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
Ông Nguyễn Gia Liêm – Phó Cục trưởng Cục QLLĐNN
** Cung cấp thông tin về kết quả thực hiện Luật đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, định hướng sửa đổi Luật giai đoạn 2020 – 2030, ông Nguyễn Gia Liêm – Phó Cục trưởng Cục QLLĐNN cho biết: Ước tính có khoảng 580 nghìn lao động Việt Nam đang làm việc ở khoảng 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, với khoảng 30 ngành nghề khác nhau từ lao động giản đơn đến lao động kỹ thuật cao và chuyên gia.
Những quy định của Luật đã tạo điều kiện để người lao động được tiếp cận với những thông tin chính thống trong tìm kiếm thị trường đi làm việc ở nước ngoài, nhiều thủ tục hành chính được đơn giản hóa tạo điều kiện thuận lợi trong việc chuẩn bị hồ sơ giấy tờ, từ đó mở ra nhiều cơ hội đi làm việc ở nước ngoài của người lao động.
Trong quy định của Luật và các văn bản quy định và hướng dẫn chi tiết Luật đã thể hiện rõ từ thủ tục đến các quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài, các chế độ người lao động được hưởng trong việc đào tạo nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng kiến thức cần thiết, đặc biệt là người lao động thuộc đối tượng chính sách như: lao động thuộc gia đình người có công, dân tộc thiểu số, nghèo, cận nghèo, lao động sống ở các huyện nghèo, xã khó khăn hoặc vùng bãi ngang, vien biển, hải đảo….
Các quy định, chính sách đối với lao động đã được ban hành, tuy nhiên việc thực hiện các quy định, chính sách này ở người lao động còn hạn chế,  một mặt do việc kiểm tra, giám sát hoạt động việc thực hiện của cơ quan quản lý chưa được thường xuyên, liên tục, mặt khác do bản thân người lao động chưa thực sự hiểu rõ quyền của mình hoặc còn tâm lý e ngại nên dẫn đến tình trạng chấp thuận với doanh nghiệp trong việc thu phí không đúng quy định, hoặc thu phí cao hơn so với quy định. Quy định về việc xử lý đối với người lao động vi phạm đã có nhưng việc thực hiện xử phạt người lao động vi phạm gặp nhiều khó khăn nên dẫn đến tình trạng nhiều lao động vi phạm không bị xử phạt, người lao động coi thường các quy định của pháp luật.
Về định hướng sửa đổi Luật, sẽ tập trung 6 nhóm nội dung chính, trong đó nhấn mạnh: Tăng nặng hình phạt LĐ bỏ trốn khỏi nơi làm việc, có đủ chế tài để khởi kiện LĐ và người bảo lãnh cho LĐ, bắt buộc LĐ phải nộp phạt theo quy định của pháp luật. Sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm thực hiện phân cấp cho chính quyền địa phương tổ chức đăng ký và quản lý lao động đi theo hình thức hợp đồng cá nhân. Bổ sung nghĩa vụ người lao động đi làm việc ở nước ngoài: Tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc Thỏa thuận quốc tế, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các hình thức bảo hiểm theo quy định của nước tiếp nhận người lao động. Nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước tiếp nhận người lao động hoặc Thỏa thuận quốc tế, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

** Trình bày về vấn đề “Di cư lao động Việt Nam ở ASEAN và Đông Bắc Á: Thực trạng và triển vọng” – GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn – Trường ĐH Thăng Long cho biết: Việt Nam hiện có hơn 300.000 lao động có bằng cấp không có việc làm. Tỷ lệ người có bằng đại học trở lên thất nghiệp là rất lớn, phản ánh tình trạng mất cân bằng trong giáo dục đại học và hiệu quả chưa cao. Số lượng người trong độ tuổi lao động không có việc làm phân theo trình độ đào tạo. Mặc dù số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài liên tục gia tăng nhanh (từ 78.860 người năm 2006 lên 126.300 người năm 2016, tăng 60%), nhưng chất lượng hiện vẫn còn thấp so với mặt bằng chung các nước trong khu vực.

GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn
Lao động có trình độ chuyên môn cao vẫn chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn, số lượng kỹ sư và kiến trúc sư đạt tiêu chuẩn ASEAN cũng thấp hơn so với nước bạn như Indonesia và Myanmar.

Xét theo quy mô quốc gia, Đài Loan (Trung Quốc) dẫn đầu về thu hút lao động Việt Nam (44,7%), bởi Đài Loan vốn có rất nhiều cô dâu Việt đang sinh sống tại đó; kế đến là Nhật Bản (14,35%), Hàn Quốc (10,48%) và Malaysia (9,66%).

Tính bình quân chung, thu nhập sau khi trừ chi phí sinh hoạt của lao động Việt Nam tại các thị trường thu nhập thấp, sử dụng lao động giản đơn (Malaysia) khoảng từ 3-4 triệu đồng/tháng; từ 7-12 triệu tại thị trường có thu nhập trung bình (Trung Đông, Đông Âu) và từ 15-20 triệu đồng ở những thị trường thu nhập cao (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan).

Trong 4 thị trường lớn ở trên, thì lao động Việt Nam qua để làm các công việc phổ thông vẫn chiếm phần rất lớn (hơn 99%), mà đa số là làm công nhân trong các nhà máy, xưởng công nghiệp.

Tuy nhiên, theo GS. Nguyễn Cảnh Toàn, sự chuẩn bị của lao dộng  đến làm việc ở ASEAN, Đông Bắc Á nói riêng và các nước khác nói chung còn yếu, thiếu nhiều mặt như:  đào tạo ngôn ngữ, trang bị tối thiểu về luật pháp, văn hóa, phong tục tập quán, lối sống của quốc gia nói trên,  nên việc chấp hành luật pháp còn yêu kém, không hiếm xung đột vì độ hòa nhập, thích nghi còn yếu. Hiện tượng bỏ nơi làm việc, tự do làm việc ở nơi khác và trốn ở lại khi quá hạn, gây bức xúc dư luận và nhà cầm quyền nước sở tại, ảnh hưởng không nhỏ cho kế hoạch chung xuất khẩu lao động của Bộ Lao động-Thương binh, Xã hội. Bên cạnh đó, chưa khắc phục được vấn nạn cò mồi, tuyển dụng bất hợp pháp và quản lý lao động di cư đến ASEAN và cá nước Đông Bắc Á.

Về khuyến nghị, GS. Nguyễn Cảnh Toàn nhắc lại lời nguyên Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp cho rằng, trong năm 2019, Cục Quản lý Lao động ngoài nước cần tập trung hoàn thiện hệ thống luật pháp, phối hợp với các đơn vị liên quan chuẩn bị, trình nội dung về sửa đổi Luật đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào năm 2020.

** Tại Hội nghị, TS. Nguyễn Lê Minh – chuyên gia lao động, nêu một số vấn đề về truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng trong sự nghiệp XKLĐ, trong đó nhấn mạnh: Ở trong nước, phải thừa nhận rằng thời gian qua các phương tiện truyền thông báo giấy, báo nói, báo hình, báo điện tử… đã có rất nhiều cố gắng, thông qua việc đưa tin, điều tra, phóng sự liên quan đến sự nghiệp xuất khẩu lao động.

TS. Nguyễn Lê Minh
Báo chí đã rất kịp thời phát hiện những giông tố của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; nhanh chóng vạch mặt chỉ tên các vụ lừa đảo XKLĐ, các công ty XKLĐ “ma”, các công ty XKLĐ làm ăn nhập nhèm, ký kết các hợp đồng thiệt thòi cho lao động xuất khẩu. Song, ông cũng muốn lưu ý rằng, có một số (không nhiều) mô tả cảnh bị bạc đãi đến mức tàn bạo của một số lao động làm việc trên biển, trên tàu đánh cá của Đài Loan, Hàn Quốc; hoặc lao động có tính khổ sai hoặc bị xúc phạm nhân phẩm của nữ giúp việc gia đình thì chúng ta nên cân nhắc cẩn trọng, lắng nghe nhiều chiều, thẩm tra kỹ ràng, xửa lý thông tin một cách toàn diện và thuyết phục.

Tuy nhiên, có những thông tin đúng là chua xót và bức xúc, tuy còn cá biệt, nếu ta đưa công khai có khi gây hoang mang lợi bất cập hại. Trường hợp này có thể trao đổi trức tiếp với Công ty XKLĐ yêu cầu giải quyết, hoặc trao đổi với cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này (Cục quản lý Lao động ngoài nước) để can thiệp kịp thời.

Các cơ quan truyền thông hoàn toàn có thể và có quyền đặt vấn đề với Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội để đi các nước có nhiều lao động Việt Nam đang làm, việc thực hiện các phóng sự về cộng  đồng này, qua đó người lao động có thêm niềm tin vì có thêm một kênh để phản ánh tâm tư nguyện vọng, còn cơ quan truyền thông có thêm thông tin tươi mới nhất góp phần để Nhà nước có điều kiện điều chỉnh nhanh nhất các quyết định của mình trong lĩnh vực  XKLĐ.

“Về điểm này, chúng tôi xin nêu một ví dụ: Đã có lần nhằm tìm hiểu thêm về người lao động Việt Nam ở hai nước Cộng hòa Séc và Xlo-va-kia, chúng tôi cùng với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch- đầu tư đã phối hợp với Trung tâm hợp tác báo chí truyền thông quốc tế thuộc Bộ Văn hóa thông tin đi hai nước đó để xây dựng một bộ phim phóng sự tài liệu ngắn. Bộ phim đã được công chiếu và có kết quả tốt” – TS Nguyễn Lê Minh dẫn chứng.

** Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Phó Chủ tịch Hiệp hội XKLĐ Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục QLLĐ ngoài nước cho biết, XKLĐ phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, điểm yếu của lao động Việt Nam là tình trạng bỏ trốn diễn ra phổ biến và kéo dài nhiều năm qua, ý thức còn kém, tay nghề còn yếu, chủ yếu là lao động phổ thông, chưa được đào tạo; trong khi chúng ta thiếu lao động tay nghề cao.

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh
XKLĐ của Việt Nam rất đặc thù vì chất lượng nguồn lao động, phải đào tạo nhiều, rất tốn kém. Do lao động còn thiếu ý thức nên cần phải đào tạo tập trung. Hiện nay, chúng ta đưa lao động sang Nhật Bản đã đào tạo chặt chẽ, kỹ lưỡng nên chất lượng tốt hơn.

Trước đây đã tồn tại Ban chỉ đạo XKLĐ ở địa phương, tuy nhiên hoạt động không hiệu quả. Do đó, về hướng sửa đổi Luật, các doanh nghiệp phải tuyển chọn trực tiếp, không được tuyển qua trung gian và doanh nghiệp có đơn hàng rồi mới được tuyển chọn lao động.

Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh cho rằng, truyền thông về XKLĐ rất quan trọng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy người lao động vẫn tin ở thông tin “rỉ tai” hơn là chính thức. Do đó cần làm sao để người dân tin ở thông tin từ nhà nước, báo chí cung cấp. Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh mong muốn các cơ quan báo chí cùng các cơ quan quản lý nhà nước tìm giải pháp cho vấn đề này.

Phó Chủ tịch Hiệp hội XKLĐ Việt Nam cho biết đã xây dựng Bộ quy tắc ứng xử với 100 tiêu chí/100 điểm và đã có nhiều doanh nghiệp tham gia thực hiện.

Ông Đặng Như Lợi
** Chia sẻ thông tin tại Hội nghị, ông Đặng Như Lợi – nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng, cần thay đổi cách làm trong truyền thông về XKLĐ. Cần nhìn nhận những khuyết điểm để có biện pháp khắc phục. “Trong XKLĐ chúng ta cần gì? Người lao động cần gì? Pháp luật cần gì?… Giải quyết được vấn đề này chúng ta sẽ giải quyết được câu chuyện truyền thông về XKLĐ” – ông Đặng Như Lợi gợi ý.

Ông Đặng Như Lợi cho rằng báo chí cần giảm bớt thông tin về “tội ác” và đẩy mạnh tuyên truyền pháp luật và cần đưa thông tin hai chiều.

** Về mối quan hệ giữa báo chí và doanh nghiệp XKLĐ và việc giải quyết khủng hoảng truyền thông trong hoạt động XKLĐ, PGS. TS Nguyễn Thành Lợi – Tổng Biên tập Tạp chí Người làm báo cho biết: Thực tế đã chứng minh, khủng hoảng truyền thông có thể xảy ra với doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị, tổ chức bất kỳ lúc nào, nhất là trong thời đại mạng xã hội bùng nổ tạo nên hàng triệu “nhà báo công dân” như hiện nay. Nếu không có giải pháp xử lý kịp thời và bài bản, sự khủng hoảng ấy có thể gây ra hậu quả khó lường.

PGS. TS Nguyễn Thành Lợi
Trong lĩnh vực XKLĐ, khủng hoảng truyền thông có thể xảy ra bất kỳ lúc nào do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Chủ quan có thể do người lao động bỏ trốn, bị tai nạn lao động, vi phạm pháp luật lao động nước sở tại, ngừng việc tập thể… Khách quan có thể do khủng hoảng kinh tế – chính trị của nước sở tại, do những nguyên nhân bất khả kháng như động đất, sóng thần, hỏa hoạn, khủng bố…

Khi có sự kiện, vấn đề nảy sinh, nếu báo chí đưa tin trung thực, ý kiến phân tích khách quan, có tri thức, có thiện chí, rạch ròi, cụ thể, chỉ rõ điều cần phê phán sẽ có tác dụng tích cực, gây hiệu ứng lành mạnh trong xã hội. Khi ấy buộc đơn vị, tổ chức liên quan phải nhận lỗi trước dư luận, điều chỉnh quá trình kinh doanh, thậm chí phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu để lại hậu quả nghiêm trọng.

Còn nếu báo chí chạy theo xu hướng khai thác khía cạnh giật gân để câu khách, công bố ý kiến thiếu khách quan, thiếu hiểu biết cặn kẽ vấn đề, lại phiến diện, mập mờ, lợi dụng sự kiện để đưa ra các liên hệ có tính đả kích, bài bác… thì sẽ gây tổn hại đến uy tín, lợi ích của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh Internet phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội cũng góp phần biến một số sự cố (đôi khi rất nhỏ) thành một cuộc khủng hoảng truyền thông. Từ đó có thể nói, trách nhiệm của báo chí đối với dư luận càng phải được đề cao.

Hội nghị thu hút đông đảo PV từ nhiều cơ quan báo chí
Theo PGS. Nguyễn Thành Lợi: Một trong các nguyên tắc cơ bản khi đối diện khủng hoảng truyền thông là sự chân thành, nhanh chóng cung cấp các thông tin chính xác minh bạch, có thể kiểm chứng, không né tránh, vòng vo. Trong việc này chỉ nên sử dụng mạng xã hội như là phương tiện cung cấp thông tin chính xác đến với công chúng.

Về báo chí, trước khi công bố tin tức, cần xác minh rõ ràng, chính xác; có ý kiến nghiêm khắc song không vùi dập, cố tình làm mất uy tín. Còn chủ ý gây khủng hoảng truyền thông để làm mất niềm tin vào doanh nghiệp, thương hiệu sản xuất nào đó, thì vấn đề không chỉ là trách nhiệm của báo chí, mà đã là dấu hiệu vi phạm luật pháp, cần xử lý thích đáng.

Bên cạnh đó, các cơ quan chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý nhà nước tăng cường công tác chỉ đạo, lãnh đạo và quản lý các hoạt động báo chí, truyền thông. Chủ động cung cấp thông tin, tăng cường việc chỉ đạo xử lý khi xảy ra khủng hoảng truyền thông ảnh hưởng tới sự ổn định xã hội; nâng cao hiệu quả xử lý thông tin, tránh bị động. Xử lý nghiêm các cơ quan báo chí, truyền thông, nhất là những người đứng đầu các cơ quan đó trong việc đăng tải thông tin sai lệch, gây ra khủng hoảng truyền thông.

** TS. Trần Thị Minh Phương – Trường Đại học Lao động – Xã hội cho rằng, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới, ngày càng nhiều lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, lao động Việt đã và đang gặp nhiều khác biệt về ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, thị hiếu, thói quen tiêu dùng,… gây khó khăn cho lao động trong việc tiếp cận với công việc có thu nhập cao. Do đó, trong quá trình phát triển Việt Nam cần dành sự quan tâm thực sự đến yếu tố văn hóa, coi đó chìa khóa dẫn tới thành công của lao động Việt trong bối cảnh hội nhập.

TS. Trần Thị Minh Phương
Để tăng cường đào tạo văn hóa ứng xử cho lao động xuất khẩu, TS. Trần Thị Minh Phương nhấn manhh: Hiện nay tất cả lao động đều được đào tạo tại Trung tâm đào tạo của Công ty với nội dung đào tạo đa dạng, phù hợp với khả năng của học viên cũng như đáp ứng đươc yêu cầu của phía đối tác. Hiện nay, học viên đang được đào tạo các nội dung chính: Đào tạo nghề, đào tạo tiếng, Giáo dục định hướng. Trong đó giáo trình tiếng, giáo trình định hướng và giáo trình chuyên ngành được đào tạo cơ bản theo giáo trình do Cục quản lý lao động ngoài nước biên soạn. Ngoài ra, đội ngũ giáo viên thuộc TTĐT của công ty có biên soạn thêm một số giáo trình nâng cao để phù hợp với thực tiễn đào tạo cũng như với năng lực và trình độ của học viên.

Học viên được xem clip, xem phim liên quan đến chương trình học để nâng cao trình độ nghe hiểu. thường xuyên kiểm tra viết và thi nói. Đánh giá học viên để có điều chỉnh theo nhận thức của học viên. Những học viên khá giỏi ưu tiên tiến cử đơn hàng. Học viên yếu kém thì bố trí giáo viên dạy tang cường để nâng cao trình độ.

Đặc biệt, trong thời gian đào tao tiếng và nghề học viên được học hỏi, đào tạo, rèn luyện tác phong làm việc, phong tục tập quán theo chuẩn quy định của từng thị trường.

Ngoài giáo viên người Việt có kinh nghiệm làm việc lâu dài tại nước ngoài, học viên còn được học tập và trải nghiệm với giáo viên người bản địa. Đặc biệt đối với thị trường Nhật Bản – là thị trường có yêu cầu cao đối với người lao động cả về trình độ kĩ năng và năng lực tiếng. Học viên được làm quen, giao tiếp với người bản ngữ nhằm tăng thêm phản xạ ngôn ngữ, phát âm chuẩn và đặc biệt tạo được phong thái tự tin của học viên khi tiếp xúc với người nước ngoài, có thể hiểu rõ phong tục tập quán, các vấn đề về pháp luật.

** Chia sẻ kinh nghiệm tuyên truyền về lĩnh vực XKLĐ trên báo chí mà một số kiến nghị,  ông Nguyễn Trung Chính – Q.Tổng Biên tập Báo Lao động và Xã hội nhấn mạnh: Mối quan hệ mật thiết giữa cơ quan báo chí, truyền thông với cơ quan quản lý nhà nước và  các doanh nghiệp XKLĐ có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ hỗ trợ hoạt động đưa người lao động đi làm việc nước ngoài theo hợp đồng diễn ra thuận lợi, tuân thủ đúng các nguyên tắc, quy định, đảm bảo hiệu quả và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường lao động ngoài nước, mà còn góp phần củng cố niềm tin của xã hội, của người lao động đối với hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hơp đồng.

Ông Nguyễn Trung Chính – Q. Tổng biên tập Báo Lao động và Xã hội
Nhằm nâng cao công tác thông tin tuyên truyền trong lĩnh vực XKLĐ thời gian tới, ông Nguyễn Trung Chính kiến nghị: Ngày nay bạn đọc sống trong thế giới của thông tin và sự kiện, nên truyền thông cũng phải cuốn theo để mang đến những thông tin hữu ích và thiết thực cho họ, phải tiếp cận nhanh những phương thức mới. Truyền thông về lĩnh vực XKLĐ là chia sẻ và tạo sự đồng thuận xã hội. Các doanh nghiệp XKLĐ cần có những kế hoạch thiết thực nhằm nâng cao hơn nữa tác dụng của công tác truyền thông, còn các cơ quan báo chí cũng cần có những loạt bài hay, chính xác và sống động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động XKLĐ phát triển nhanh chóng và lành mạnh

Báo chí cần dành nhiều sự quan tâm và đưa tin nhiều hơn cho hoạt động XKLĐ, làm tốt hơn nữa vai trò định hướng dư luận, tham gia giám sát, phản biện, giúp  cơ quan quản lý Nhà nước ban ngành xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện nhiều chủ trương, chính sách pháp luật về XKLĐ. Báo chí cần trở thành  cầu nối giữa người  lao động với cơ quan quản lý nhà nước, với chính quyền địa phương và doanh nghiệp XKLĐ. Ngoài vai trò tư vấn cho người lao động và doanh nghiệp, báo chí cần định hướng những thông tin tích cực và  đấu tranh phòng chống tiêu cực trong lĩnh vực XKLĐ.

** Chia sẻ kinh nghiệm truyền thông về XKLĐ, bà Phạm Ngọc Lan – Phó Giám đốc Trung tâm Lao động ngoài nước cho biết: Trung tâm Lao động ngoài nước luôn chú trọng về công tác thông tin, truyền thông; tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động khi tham gia Chương trình EPS. Công tác thông tin, truyền thông được tiến hành thường xuyên, liên tục thông qua các cơ quan thông tấn, báo chí, bao gồm cả báo hình, báo viết, báo mạng, phát thanh, thông tin trên cổng thông tin điện tử của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, website của Trung tâm Lao động ngoài nước, trên mạng xã hội thông qua các trang fanpage của Trung tâm.

Bà Phạm Ngọc Lan – Phó Giám đốc Trung tâm Lao động ngoài nước
Nhằm ngăn ngừa các hành vi lừa đảo, tiêu cực, công tác truyền thông được quan tâm, chú trọng  đẩy mạnh vào mỗi đợt thi tiếng Hàn, theo đó, Trung tâm Lao đông ngoài nước đã phối hợp với Cục Quản lý lao động ngoài nước thông tin trên Đài truyền hình trung ương, Đài Tiếng nói Việt Nam, các báo… về kỳ thi tiếng Hàn gồm: cơ quan triển khai thực hiện; quy định về điều kiện, đối tượng tham gia; phương thức chấm điểm, tuyển chọn (do Hàn Quốc chịu trách nhiệm); cảnh báo các hành vi tiêu cực, lừa đảo. Bên cạnh đó, Trung tâm đã in tờ rơi thông tin về chương trình EPS phát trực tiếp người lao động khi đăng ký tham dự kỳ thi tiếng Hàn tại các địa phương.

Để chương trình thực hiện công khai, minh bạch, các thông tin quan trọng trong quá trình phái cử như: kết quả thi tiếng Hàn, tiến độ hoàn thiện hồ sơ thủ tục của người lao động, người lao động được doanh nghiệp tiếp nhận lựa chọn, kế hoạch xuất cảnh… đều được Trung tâm thông báo tới người lao động với nhiều hình thức: nhắn tin qua hệ thống tổng đài tự động của Trung tâm tới điện thoại di động của người lao động, đăng tin trên website Trung tâm, gửi công văn thông báo cho các Sở Lao động – Thương binh và Xã hội địa phương.

** Đề xuất tại Hội nghị, ông Lê Nhật Tân – Phó Tổng giám đốc Công ty CP Phát triển nhân lực LOD, cho rằng Bộ Lao Động Thương Binh & Xã Hội thực hiện triệt để các biện pháp xử lý đối với các trường hợp lao động bỏ trốn khi đang thực hiện hợp đồng tại nước ngoài, cũng như phối hợp với ban ngành địa phương để tái đào tạo và giải quyết công ăn việc làm cho lao động khi về nước.

Bên cạnh đó, mở các kênh thông tin chính thống, các sàn giao dịch việc làm, các hội chợ việc làm để người lao động có thể đăng ký trực tiếp đi làm việc ở nước ngoài, tránh phải qua các chung gian giới thiệu thu thêm phí của người lao động. Xây cổng tạo cổng thông tin điện tử, tạo sân chơi minh bạch, giúp quản lý tốt hơn tình hình tuyển chọn lao động đi làm việc tại Nhật Bản.

Nhà báo Lý Hà – Thời báo Tài chính chia sẻ tại Hội nghị
Nhà báo Lâm Quốc Minh (Truyền hình Hà Nội) trao đổi tại Hội nghị
** Kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh: Báo chí chính thống đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp, phản ánh một cách nhanh nhạy, kịp thời các thông tin đúng, đủ, rõ ràng, chính xác và khách quan về thị trường và về hoạt động đưa người lao động đi làm việc nước ngoài, đặc biệt là các thông tin về chủ trương, chính sách, là cầu nối, đưa các chế độ, chính sách, thông tin mới về thị trường, điều kiện, tiêu chuẩn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, về quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia XKLĐ cho người dân và các bên liên quan được biết.

Điều này góp phần rất lớn trong việc tạo niềm tin cho người lao động về các chương trình, đồng thời hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc nước ngoài, nhất là trong điều kiện bùng nổ thông tin trên mạng xã hội và internet hiện nay, khi người lao động phải lựa chọn giữa một “rừng” thông tin trên rất nhiều website và mạng xã hội khác nhau thì thông tin chính thức trên báo chí luôn là những thông tin đáng tin cậy và chính thống nhất.

Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà khẳng định: Hội nghị đã cung cấp bức tranh tổng quát về XKLĐ tại Việt Nam, giải pháp đào tạo người lao động trong nước đưa đi nước ngoài; mặt được và chưa được trong công tác XKLĐ; chính sách cho lao động khi trở về; hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này; giáo dục văn hóa cho người lao động; nâng cao hiệu quả công tác truyền thông; các giải pháp từ doanh nghiệp… Hội nghị đã có cái nhìn đa chiều, qua đó Thứ trưởng ghi nhận những ý kiến tại Hội nghị, đồng thời giao Tạp chí Lao động và Xã hội nghiên cứu, tiếp tục phối hợp với các cơ quan báo chí khác đẩy mạnh công tác truyền thông về XKLĐ hiệu quả hơn nữa./.